Không phải tất cả các bệnh ung thư vú đều giống nhau. Ung thư vú được phân loại dựa trên các loại mô, nơi tế bào ung thư bắt đầu.
Một số loại ung thư vú gây ra khối u đáng chú ý, trong khi các loại ung thư vú khác chỉ có biểu hiện ở da thay đổi hoặc không có triệu chứng gì cả. Xác định được loại ung thư vú, xuất hiện ở đâu và có bao nhiêu tế bào ung thư, các khu vực ung thư đã lan rộng? Tất cả thông tin này giúp bác sĩ quyết định phương pháp điều trị hiệu quả nhất.
Sau đây là các loại ung thư vú phổ biến:
DCIS là dạng phổ biến nhất của ung thư vú không xâm lấn, bắt đầu từ bên trong các tế bào của ống dẫn sữa.
Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, ung thư biểu mô tuyến vú tại chỗ (DCIS) có thể biến thành một dạng xâm lấn của ung thư và có thể lan sang các khu vực khác.
IDC cũng là loại ung thư vú phổ biến nhất ảnh hưởng đến nam giới.
Giống như DCIS, ung thư biểu mô tuyến vú xâm lấn (IDC) cũng bắt đầu ở ống dẫn sữa của vú. Nhưng nó không cố định tại chổ như ung thư biểu mô tuyến vú tại chỗ (DCIS), mà có thể lây lan, di căn sang bên ngoài các ống dẫn và vào các mô mỡ ở vú.
Từ thời điểm này, các tế bào ung thư có thể lan tràn (di căn) tới các bộ phận khác của cơ thể thông qua hệ thống bạch huyết và mạch máu.
Giống như IDC, ung thư biểu mô thuỳ xâm lấn (ILC) có thể di căn đến các bộ phận khác của cơ thể.
Theo Hiệp hội Ung thư Mỹ, ung thư biểu mô thuỳ xâm lấn chiếm khoảng 10% các ca ung thư vú xâm lấn - khoảng 1 trong 10 bệnh ung thư vú xâm lấn.
Với ung thư biểu mô thuỳ xâm lấn (ILC), hầu hết phụ nữ cảm thấy một sự dày lên thay vì một khối u ở vú của họ. Đây là loại ung thư vú khó phát hiện bằng chụp quang tuyến vú hơn là IDC.
IBC có cơ hội lây lan cao hơn và các triệu chứng xấu đi trong vài ngày thậm chí vài giờ so với các loại ung thư vú khác.
Đôi khi trong giai đoạn đầu của nó, IBC - Ung thư vú thể viêm có thể bị nhầm lẫn với một bệnh nhiễm trùng ở vú (gọi là viêm vú) và được điều trị bằng kháng sinh - sẽ không giúp cải thiện tình trạng bệnh.
Không giống như các loại ung thư vú, IBC thường không gây ra khối u, có thể khó phát hiện bằng chụp nhũ ảnh
Thay vào đó, bởi vì các tế bào ung thư làm nghẽn mạch bạch huyết ở da, ung thư vú thể viêm (IBC) có thể gây ra những đặc điểm sau đây:
Một số loại ung thư vú gây ra khối u đáng chú ý, trong khi các loại ung thư vú khác chỉ có biểu hiện ở da thay đổi hoặc không có triệu chứng gì cả. Xác định được loại ung thư vú, xuất hiện ở đâu và có bao nhiêu tế bào ung thư, các khu vực ung thư đã lan rộng? Tất cả thông tin này giúp bác sĩ quyết định phương pháp điều trị hiệu quả nhất.
Sau đây là các loại ung thư vú phổ biến:
Mục lục:
- 1. Ung thư biểu mô tuyến vú tại chỗ - Ductal Carcinoma in Situ (DCIS)
- 2. Ung thư biểu mô tuyến vú Xâm lấn - Invasive Ductal Carcinoma (IDC)
- 3. Ung thư biểu mô thuỳ xâm lấn - Invasive Lobular Carcinoma (ILC)
- 4. Ung thư vú thể Viêm - Inflammatory Breast Cancer (IBC)
- 5. Bệnh Paget của núm vú - Paget Disease of the Breast
- 6. Ung thư vú âm tính cấp độ 3 - Triple Negative Breast Cancer
- 7. Các loại khác của ung thư vú
1. Ung thư biểu mô tuyến vú tại chỗ - Ductal Carcinoma in Situ (DCIS)
Một trong năm trường hợp ung thư vú mới là ung thư biểu mô tuyến vú tại chỗ (DCIS), còn được gọi là ung thư biểu mô intraductal - theo Hiệp hội ung thư Mỹ (ACS).DCIS là dạng phổ biến nhất của ung thư vú không xâm lấn, bắt đầu từ bên trong các tế bào của ống dẫn sữa.
Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, ung thư biểu mô tuyến vú tại chỗ (DCIS) có thể biến thành một dạng xâm lấn của ung thư và có thể lan sang các khu vực khác.
2. Ung thư biểu mô tuyến vú Xâm lấn - Invasive Ductal Carcinoma (IDC)
Đây là loại phổ biến nhất của ung thư vú. Ung thư biểu mô tuyến vú xâm lấn (IDC), chiếm khoảng 80% của tất cả các trường hợp mắc ung thư vú - theo National Breast Cancer Foundation.IDC cũng là loại ung thư vú phổ biến nhất ảnh hưởng đến nam giới.
Giống như DCIS, ung thư biểu mô tuyến vú xâm lấn (IDC) cũng bắt đầu ở ống dẫn sữa của vú. Nhưng nó không cố định tại chổ như ung thư biểu mô tuyến vú tại chỗ (DCIS), mà có thể lây lan, di căn sang bên ngoài các ống dẫn và vào các mô mỡ ở vú.
Từ thời điểm này, các tế bào ung thư có thể lan tràn (di căn) tới các bộ phận khác của cơ thể thông qua hệ thống bạch huyết và mạch máu.
3. Ung thư biểu mô thuỳ xâm lấn - Invasive Lobular Carcinoma (ILC)
Có nguồn gốc ở tuyến sản xuất sữa, được gọi là tiểu thùy.Giống như IDC, ung thư biểu mô thuỳ xâm lấn (ILC) có thể di căn đến các bộ phận khác của cơ thể.
Theo Hiệp hội Ung thư Mỹ, ung thư biểu mô thuỳ xâm lấn chiếm khoảng 10% các ca ung thư vú xâm lấn - khoảng 1 trong 10 bệnh ung thư vú xâm lấn.
Với ung thư biểu mô thuỳ xâm lấn (ILC), hầu hết phụ nữ cảm thấy một sự dày lên thay vì một khối u ở vú của họ. Đây là loại ung thư vú khó phát hiện bằng chụp quang tuyến vú hơn là IDC.
4. Ung thư vú thể Viêm - Inflammatory Breast Cancer (IBC)
Ung thư vú thể viêm (IBC) là một dạng hiếm, chỉ chiếm 1-3% của tất cả các bệnh ung thư vú - theo Hiệp hội ung thư Mỹ.IBC có cơ hội lây lan cao hơn và các triệu chứng xấu đi trong vài ngày thậm chí vài giờ so với các loại ung thư vú khác.
Đặc điểm của Ung thư vú thể viêm (IBC) |
Không giống như các loại ung thư vú, IBC thường không gây ra khối u, có thể khó phát hiện bằng chụp nhũ ảnh
Thay vào đó, bởi vì các tế bào ung thư làm nghẽn mạch bạch huyết ở da, ung thư vú thể viêm (IBC) có thể gây ra những đặc điểm sau đây:
- Da trên vú đỏ, và cảm thấy nóng
- Da vú dầy có phần giống như một vỏ cam
- Cảm giác ngứa, vú sưng lớn hơn, cứng hơn
Tổng hợp và biên soạn theo: Tổ chức chăm sóc sức khoẻ Thế giới
XEM TIẾP: Các loại ung thư vú thường gặp | Phần 2