Truyện Dân Gian hay:
- 11. Cổ nhân dạy cách Tu Thân: Người quân tử và kẻ tiểu nhân
- 12. Ôm cây đợi thỏ
- 13. Đánh dấu thuyền tìm gươm
- 14. Ba con rận kiện nhau
- 15. Tăng Sâm giết người
- 16. Câu chuyện Mâu Thuẫn: Bán mộc bán giáo
- 17. Tây thi: Bắt chước nhăn mặt
- 18. Khổng tử: Cái được cái mất của người làm quan
- 19. Án Tử: Can Vua Cảnh Công bỏ rượu
- 20. Ngựa quý của vua Cảnh Công: Án Tử khéo can được Vua
Trạng Quỳnh vào chầu, Vua bảo:
- Trẫm ăn đủ của ngon vật lạ, không còn thứ gì quý hiếm trên đời này mà Trẫm chưa được thưởng thức. Quái lạ, thế mà vẫn chưa có món nào làm ta thực sự thấy ngon miệng. Điều đó là tại làm sao, Trạng nói ta hay?
Trạng Quỳnh thết đãi Vua món "Mầm đá" và "Đại phong"
Quỳnh nói luôn: - Tâu bệ hạ, thế bệ hạ đã xơi mầm đá bao giờ chưa ạ?Vua lấy làm lạ: - Món mầm đá à, có ngon lắm không?
Trạng Quỳnh đáp: - Dạ, là cực phẩm nhân gian hiếm có. Nhưng muốn ăn mầm đá phải kỳ công.
Vua liền nằng nặc: - Sợ gì công phu! Miễn là được ăn ngon. Nhất là lúc này, trẫm đang mệt mỏi, đang rất cần ăn biết ngon. Trạng hãy mau chóng cho làm móm mầm đá kia đi!
Ngày hôm sau, vào tờ mờ sáng. Quỳnh viết thiếp cho gia nhân mời vua đến nhà thiết đãi tiệc mầm đá. Trời mới rạng sáng nhà Vua lập tức đến nhà Trạng Quỳnh.
Đến khi mặt trời đứng bóng, vẫn thấy Quỳnh hì hục bận rộn dưới bếp, thỉnh thoảnh chạy ra, chạy vào, mồ hôi nhể nhại, khăn tay vắt vai, tay áo xắn đến khuỷu... tất tưởi chăm củi lửa.
Vua nghĩ thầm: "Đúng là món mầm đá kỳ công thật!"
Quá giờ Ngọ, sang Mùi, bụng vua bắt đầu cồn cào. Trạng Quỳnh vừa ló mặt, vua chép miệng, trách: - Sao món "mầm đá" lâu chín thế?
Quỳnh lấy khăn tay thấm mồ hôi trán tâu rằng: - Thần muốn bệ hạ ngon miệng nên mới dụng công ninh "mầm đá" thật công phu. Xin gắng đợi chút nữa, sắp chín rồi...
Một chốc sau Vua lại giục, Quỳnh lại khẩn khoản thưa: "Gắng đợi thêm một chút mầm đá không kỹ lửa, không ninh nhừ ăn khó tiêu..."
Mặt trời xế bóng vẫn chưa thấy món mầm đá được dọn ra. Mùi cá khô, lẫn mùi khói bếp bữa cơm chiều của những nhà hàng xóm cạnh bên, làm bụng Vua "sôi lên sùng sục". Nhà vua đành gọi Trạng Quỳnh lên, vua ngồi lù đù hóp bụng lại, thú thật: "Ta đói lắm rồi, không đợi được nữa. Mầm đá để dành ăn sau cũng được. Bây giờ có thức gì dùng tạm, Trạng cứ cho mang lên!"
Quỳnh dạ một tiếng, vẻ miễn cưỡng rồi hét vọng xuống bếp: - Cứ chất thêm củi vào nồi "mầm đá"! Hãy bưng cơm lên dâng bệ hạ dùng cho qua bữa đã! Gia nhân dạ ran, rồi bê cái mâm lên.
Trên mâm, có một bát cơm với dĩa rau muống luộc, và một chiếc hũ sành. Vua thấy ngoài chiếc hũ có dán mảnh giấy hồng đề hai chữ "đại phong". Vua ăn cơm rau chấm nước "đại phong" ngon lành, chỉ một loáng lại đưa bát cho Trạng Quỳnh xới tiếp. Vua nghĩ bụng, chắc món này cũng quý hiếm đặc biệt, nên thấy Trạng giữ gìn chiếc hũ cẩn thận. Có lần rau đã hết nước chấm, mãi mới thấy Trạng Quỳnh cẩn thận đỡ miệng hũ, múc thêm mấy muôi nhỏ "đại phong" nữa... Vua ngắm nghía chiếc hũ lại nhìn Trạng:
- Này khanh, "đại phong" là món gì mà ngon lạ như vậy?
– Bẩm, đây chỉ là món thường ngày của con dân trong làng.
- Là gì, nói lên cho ta biết?
- Bẩm là tương ạ!
Vua không tin bèn hỏi: "Đại phong" là nghĩa thế nào?
Quỳnh tủm tỉm cười: - Bẩm Ðại phong là gió lớn, gió lớn ắt đổ chùa, đổ chùa thì tượng lo, tượng lo là lọ tương.
Vua cười nói: - Lâu nay ta không ăn, quên mất cả vị, sao lại ngon thế?
Tâu bệ hạ, quả không sai, thứ tương đỗ này là chỉ là món ăn của dân nghèo xoàng xĩnh. Sở dĩ bệ hạ thấy ngon miệng bởi lúc ta đói thì ăn gì cũng thấy ngon, còn khi no dù ăn bao nhiêu sơn hào hải vị cũng không thấy vừa miệng.
Nhà Vua như bừng tỉnh... Liền đứng dậy, cảm ơn Trạng Quỳnh, rồi ra về.
Sưu tập và kể lại: Thiên Hương